Medonthan – Tháng 5/2001, Hội đồng Y tế Thế giới (World Health Assembly) kêu gọi các nước thành viên thúc đẩy việc trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời vì nền y tế công cộng toàn cầu. Đề nghị này được dựa vào báo cáo khoa học năm 2001 của Ban Chuyên gia Tư vấn của WHO về “Thời gian tối ưu của việc bú mẹ hoàn toàn – Optimal Duration of Exclusive Breastfeeding” (WHO 2001).
Báo cáo khoa học này xem xét một cách có hệ thống tất cả các bằng chứng từ các nghiên cứu trên thế giới và đưa đến kết luận rằng việc bú mẹ hoàn toàn trong sáu tháng có nhiều lợi ích cho cả mẹ và bé. Đứng đầu trong số các lợi ích này là các tác dụng bảo vệ chống lại nhiễm trùng đường tiêu hóa cho trẻ sơ sinh, không chỉ ở những quốc gia đang phát triển và ngay cả ở những quốc gia công nghiệp hiện đại. Có một số bằng chứng khác cho thấy khả phát triển vận động cũng được tăng cường nhờ bú mẹ hoàn toàn trong sáu tháng đầu đời.
Đối với người mẹ, việc cho con bú mẹ hoàn toàn trong sáu tháng giúp kéo dài thời gian vô kinh và giảm cân nhanh. Giảm cân là có lợi với hầu hết phụ nữ tăng cân nhiều trong thai ký, nhưng có thể là bất lợi đối với phụ nữ thiếu cân, nhưng với nhóm này, có thể đảm bảo bằng chế độ dinh dưỡng phù hợp.
Nghiên cứu trên diện rộng cho thấy rằng không có bất kỳ bất lợi nào về phát triển của trẻ khi trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời mà cần phải cho bé ăn dặm sớm hơn 6 tháng. Cho dù bé sinh đủ tháng hay sinh nhẹ cân thì sữa mẹ cũng cung cấp đủ dinh dưỡng cho bé hoàn toàn trong 6 tháng đầu. (WHO / UNICEF, 1998).
Tuy nhiên, trong một vài trường hợp, một số các chất vi lượng có thể bị thiếu hụt trước sáu tháng. Ví dụ chất sắt: Vì cơ thể bé cần sử dụng năng lượng từ 2 nguồn, nguồn chất sắt dự trữ từ sơ sinh và nguồn sữa mẹ. Trong trường hợp bé sinh đủ tháng, cân nặng bình thường có mẹ không bị thiếu máu trong thai kỳ, thì nguy cơ thiếu sắt trước 6 tháng của bé rất thấp. Đối với bé nhẹ cân hoặc mẹ bị thiếu máu trong thai kỳ thì nguy cơ thiếu sắt từ tháng thứ 2, 3 cao hơn và sẽ được kê toa uống bổ sung sắt bắt đầu từ 2 hoặc 3 tháng.
Các chất vi lượng khác có thể bị thiếu là kẽm, vì mặc dù khả năng hấp thụ kẽm trong sữa mẹ trong sữa mẹ cao, nhưng nồng độ tương đối thấp. Tương tự như sắt, lượng dự trữ từ máu nhau thai khi sinh là quan trọng để có đủ kẽm. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có bằng chứng nào là thiếu kẽm trước 6 tháng ảnh hưởng đến sự phát triển của bé. Tương tự như cách xử lý trong trường hợp thiếu sắt, bé thiếu kẽm có thể được uống kẽm bổ sung.
Thiếu hụt vitamin thường hiếm gặp ở trẻ bú mẹ, nhưng nếu bà mẹ có chế độ dinh dưỡng lệch (thiếu hẳn một số chất, ví dụ mẹ ăn chay…), trẻ sơ sinh có thể thiếu của một số vitamin (như vitamin A, riboflavin, vitamin B6, và vitamin B12). Trong tình huống này, có thể hoặc là cải thiện chế độ dinh dưỡng của người mẹ hoặc bổ sung cho bé theo chỉ định của bác sĩ trong thời gian cần thiết, thay vì cho bé ăn dặm sớm.
Vitamin D có thể thiếu ở những bé ở một số vùng xứ lạnh, không được tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, bé có thể được bổ sung vitamin D trực tiếp nếu cần.
Cần biết rằng tăng trưởng và phát triển của bé, hoặc việc bổ sung các chất vi lượng, nếu cần, cũng không hề được cải thiện nhờ ăn dặm sớm, ngay cả trong điều kiện tối ưu (tức là, dinh dưỡng, an toàn vệ sinh thực phẩm). Mà ngược lại, các loại thực phẩm ăn dặm trước 6 tháng sẽ làm giảm khả năng nhận được tối đa sữa mẹ của bé.
Các chuyên gia của WHO kết luận rằng đợi đến đủ 6 tháng mới bắt đầu cho bé ăn dặm có nhiều giá trị lợi ích sức khoẻ lâu dài, chứ không có bất kỳ bất lợi nào cho bé bú mẹ hoàn toàn suốt 6 tháng. Đồng thời, từ sau 6 tháng tuổi, nguồn dự trữ của một số vi chất dự trữ trong cơ thể bé từ máu của nhau thai đã cạn, nhu cầu của bé lại tăng, do đó, sữa mẹ đến giai đoạn này không đáp ứng nhu cầu của một số chất, nên việc bé ăn dặm để tiếp nhận thêm dưỡng chất từ một số thực phẩm khác bên cạnh sữa mẹ là cần thiết.
Tuy nhiên, trong môi trường vệ sinh về môi trường tồi tệ (dịch bệnh, thiên tai…), các bé có thể ăn dặm muộn hơn 6 tháng để các bé được giảm nguy cơ tiếp xúc với các mầm bệnh truyền qua các thực phẩm ăn dặm.
Ở độ tháng tuổi này, bé cũng đã bắt đầu chủ động tìm hiểu môi trường xung quanh và sẽ tiếp xúc với các chất độc vi sinh trong môi trường xung quanh, cho dù bé có bắt đầu ăn dặm hay không.
Do đó, báo cáo khoa học này kết luận 6 tháng (180 ngày) là độ tuổi thích hợp nhất để bắt đầu tập cho bé ăn dặm.
Những lý do buộc phải dùng thức ăn thay thế sữa mẹ:
– Mẹ bị bệnh nặng không thể hoặc rất khó cho con bú; nhiễm HIV; đang dùng các thuốc như iốt phóng xạ, an thần mạnh, một số thuốc kháng thyroid, các thuốc gây nhiều tác dụng phụ… Nếu mẹ bị herpes ở vú thì nên ngừng cho bú tạm thời cho đến khi khỏi. Nếu bị các nhiễm trùng khác như viêm ápxe vú, viêm gan B (người lành mang virus) thì vẫn có thể cho bú.
– Trẻ bệnh nặng đang trong giai đoạn điều trị tích cực (có thể dùng dung dịch nuôi dưỡng riêng cùng với sữa mẹ vắt ra), suy dinh dưỡng và mất nước nặng (cần một chế độ dinh dưỡng khẩn cấp, phù hợp).
Medonthan tổng hợp
Bình luận bị đóng