“Con thân yêu! Mầm sống xinh của mẹ
Ngoan nhé con! Và mau lớn nhé con
Mặt trời cuộc đời ngày mai sẽ…
Chở che con qua hết những tủi buồn”.
Trần Thị Hoàng Mai, người đoạt giải nhất cuộc thi viết “Sự hối hận và niềm tin hướng thiện” trong phạm nhân do Tổng cục VIII- Bộ Công an tổ chức, đã viết những dòng thơ trên vào cuốn sổ tay của tôi nhờ gửi cho đứa con trai bé bỏng của cô. Khi đó, tự truyện Bước về phía mặt trời của cô chưa được gửi đi dự thi…
Số phận nghiệt ngã của nữ phạm nhân
Thông thường, khi đi viết bài tại các trại giam, thói quen của phóng viên chúng tôi là tìm những phạm nhân trong các vụ án “nổi”, nghĩa là những vụ án được dư luận xã hội quan tâm. Phạm nhân Trần Thị Hoàng Mai không nằm trong số này. Hồ sơ của nữ phạm nhân này không có gì đặc biệt: Trần Thị Hoàng Mai, sinh năm 1979, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tập thể Văn Chương, Đống Đa, Hà Nội; trình độ văn hóa 9/12; phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy; án: 7 năm tù giam; ngày bị bắt: 21-10- 2008; ngày vào Trại Thanh Xuân: 21-4-2009.
Tình cờ trong lần công tác tại Trại giam Thanh Xuân dịp đặc xá nhân Quốc khánh 2-9-2011, thượng tá Phan Trọng Hà, phó giám thị, cho tôi xem một số bài viết của phạm nhân tham dự cuộc thi viết mang tên “Sự hối hận và niềm tin hướng thiện do Tổng cục VIII – Bộ Công an phát động. Trong một tập bản thảo, câu chuyện dài 45 trang viết tay của phạm nhân Trần Thị Hoàng Mai đã cuốn hút tôi ngay từ đầu.
Số phận đặc biệt của Trần Thị Hoàng Mai trong tự truyện Bước về phía mặt trời (Bản thảo viết tay ban đầu, Mai lấy nhan đề là Gạn đục khơi trong) là một chuỗi dài bi kịch. Khi Mai ba tuổi, bố mẹ ly hôn. Mẹ bỏ Mai sống với người cha nghèo khó để đi tìm hạnh phúc mới. Những năm tháng rong ruổi trên đường cùng cha kiếm sống, Mai tự ví mình như cái giẻ vắt vai của cha. Rồi người cha của Mai cũng tìm được một bến đỗ mới. Bao nhiêu năm sống lang bạt, Mai tưởng rằng đây là lúc được hưởng cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc dưới mái nhà mới.
Phạm nhân Trần Thị Hoàng Mai đang viết tự truyện
Nhưng cô bé đang tuổi mới lớn lại rơi vào hoàn cảnh trớ trêu bởi quan niệm “con anh, con tôi” của người dì ghẻ. Đúng lúc ấy, người mẹ bao nhiêu năm bỏ rơi con xuất hiện đưa Mai đi. Được về ở với mẹ đẻ nhưng số phận nghiệt ngã đầy sóng gió đã đưa đẩy cuộc đời cô gái trẻ từ đây. Trong một đêm mẹ vắng nhà, Mai bị cha dượng, một kẻ nát rượu, giở trò đồi bại. Cô chống trả quyết liệt, chạy ra đường giữa đêm hôm khuya khoắt. Như con chim non lạc tổ, Mai rơi vào cạm bẫy mới của lũ thanh niên dạt nhà. Được một bảo vệ cứu thoát nhưng không ngờ, Mai lại trở thành nạn nhân của chính gã bảo vệ đốn mạt này ngay sau đó. Trải qua những cú sốc đầu đời dữ dội và đau đớn như vậy, lại không được mẹ ruột cảm thông, cô gái tìm đến cái chết nhưng không thành.
Cho rằng con gái hư hỏng, người mẹ đẻ đang tâm “bán” con vào tay một tú bà. Mai trở thành gái nhà hàng và bắt đầu cuộc sống kiếm tiền ô nhục. Mai tặc lưỡi chấp nhận với thái độ bất cần bởi cho rằng đời mình còn gì để mà mất nữa đâu”. Càng dấn thân vào kiếp mua vui cho thiên hạ, Mai càng trở nên ngang tàng, hoang dại, nuôi dưỡng lòng thù hận cuộc đời.
Thế giới của những cô gái trẻ đầm mình trong những cuộc chơi thâu đêm cùng bài bạc, rượu mạnh và thác loạn đã đẩy Mai đến một kết cục tất yếu. Cô trở thành con nghiện ma túy. Và “bản án tử hình” đến với cô khi Mai vừa tròn 20 tuổi. Cô phát hiện đã nhiễm HIV/AIDS. Đến lần cai nghiện thứ ba, Mai gặp và yêu một thanh niên cùng cảnh ngộ. Mai sinh con. Bị mẹ ép phải cho đi đứa con nhưng cô vẫn tìm mọi cách giữ lại. Cuối cùng, mẹ Mai đã đồng ý nuôi đứa trẻ. Thế nhưng, thật đáng thương cho Mai. Những ngày hạnh phúc được làm mẹ với cô thật ngắn ngủi. Bệnh tật giày vò khiến cô lại tìm đến ma túy. Mai bị xử 7 năm tù giam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy…
Tình mẫu tử chiến thắng sự thù hận
Khi phạm nhân. Trần Thị Hoàng Mai ngồi trước mặt, tôi tự hỏi không biết cô ấy có chống chọi nổi căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS đang mang trong mình cho đến lúc mãn hạn tù? Khuôn mặt gầy xơ xác, hai cái má tóp teo, đôi bàn tay thâm tím vì các vết lở loét, những biểu hiện rõ nhất của bệnh nhân HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS đang hiện hữu trước mặt tôi. Dường như mặc cảm, e ngại cái mùi hôi tanh bốc ra từ cơ thể bệnh tật của mình, Mai cố tình ngồi cách tôi một khoảng xa. Câu chuyện giữa chúng tôi cứ đứt quãng bởi nói được vài câu, Mai phải dừng lại để lấy hơi.
Mai bảo cô không oán trách gì số phận. Trái lại, cô cảm ơn cuộc đời đã cho cô hạnh phúc được làm mẹ. Và chính đứa con bé bỏng đã thay đổi con người cô, cho cô khát vọng sống, khát vọng hoàn lương. “Có những lúc hận thù, em muốn giết hết tất cả những người xung quanh, kể cả những người thân yêu nhất. Nhưng từ khi có con, em trở thành một con người khác. Em thấy lòng mình dịu lại, không còn thù hận, hy vọng được sống nhân lên. Em khao khát được sống…”.
Mai kể quãng thời gian trong trại cai nghiện, cô đặc biệt thân thiết với Lâm Uyển Nhi, người đẹp bạc mệnh có số phận cũng éo le không kém. “Chị Nhi sinh con xong cũng bỏ lại ở bệnh viện phụ sản. Sau này, con chị ấy được chuyển lên Trung tâm 2 nhưng chị ấy không biết. Lúc trốn trại ra ngoài, chị ấy tâm sự với em nếu có tiền sẽ tìm và mang con về nuôi. Lúc đó em nghĩ tại sao chị ấy lại có thể bỏ con một cách dễ dàng như vậy. Không ngờ sau này, em cũng lâm vào hoàn cảnh như Lâm Uyển Nhi. Chính vì vậy, em quyết tâm giữ đứa bé, mặc dù trong lòng cũng hoang mang, không hiểu cháu có bị lây nhiễm căn bệnh thế kỷ từ cha mẹ hay không.
Lần cuối cùng em gặp Lâm Uyển Nhi trên đường Hồng Hà. Lúc đó em mới có thai, còn chị Nhi vừa trốn Trung tâm 09 ra. Lúc đó chị Nhi đã yếu lắm rồi. Gặp em, biết em có bầu, Nhi vui lắm. Chị ấy xoa bụng em bảo cố gắng giữ, chị chết rồi sẽ phù hộ cho. Mấy hôm sau, em nghe tin Lâm Uyển Nhi đã qua đời. Em chưa từng trải qua cảm giác được làm mẹ. Chính vì vậy khi có thai, dù biết khi bệnh tật như vậy thì không nên có con nhưng khao khát được làm mẹ đã khiến em kiên quyết giữ lại cái thai. Hình như bản năng của người mẹ trỗi dậy nên lúc đó em cũng không nghĩ gì nhiều”.
Niềm vui ánh lên trong mắt khi Mai kể được mẹ thông báo con trai cô “không có H”. “Mẹ nói đã xét nghiệm cho cháu 3 lần rồi. Từ lúc biết tin này, em chỉ mong muốn được sống khỏe mạnh cho đến ngày được trở về với con. Mong mẹ tha thứ cho em, mong mẹ mạnh khỏe để nuôi con cho em, vì em biết mình không thể theo con đến suốt cuộc đời”.
Khát vọng sống và niềm tin hướng thiện
Mai tâm sự cho đến lúc vào trại giam, nhiều lúc cô ghê sợ với chính bản thân mình, ghê sợ cơ thể đang bị bệnh tật tàn phá mỗi ngày. Nếu như ở ngoài xã hội, cô bị mọi người, thậm chí cả những người thân yêu nhất, ghẻ lạnh và ghê sợ vì bệnh tật, thì ở đây, những lúc cùng quẫn nhất, những lúc tưởng như cuộc sống đã rời bỏ cô, vẫn còn những bàn tay dang rộng nâng đỡ cô. Không ai khác đó là những nữ cán bộ quản giáo, những người hàng ngày chăm sóc sức khỏe cho cô, giúp cô giành giật sự sống từ bệnh tật.
Cái Tết đầu tiên trong Trại giam Thanh Xuân cũng là kỷ niệm không thể nào quên đối với cô. Đó là một buổi chiều cuối năm giáp Tết Nguyên đán 2010. Lúc đó Mai bị nhiễm trùng cơ hội, toàn thân phù sũng, lở loét, bốc mùi. Đau đớn vì bệnh tật, Mai cũng tự biết rằng dù có lòng thương cảm nhưng không ít phạm nhân dè dặt và ái ngại khi tiếp xúc với cô trong tình cảnh ấy.
Do bệnh nặng, Mai được chuyển ra Bệnh viện Hà Đông để điều trị. Lúc này, cô rất yếu, đi cũng không vững. Trước mắt Mai chỉ toàn là bóng tối. Sau này, những giây phút cận kề với tử thần ấy đã được Mai viết lại trong tự truyện hết sức chân thật. “Trong lúc chờ đợi để chuẩn bị tư trang cùng một số đồ dùng cá nhân chuyển theo xe đưa tôi ra bệnh viện tuyến trên, tôi được dìu tay ngồi xuống chiếc ghế tựa. Bỗng tôi thấy bóng dáng bộ sắc phục xanh của một nữ cán bộ trẻ xuất hiện cứ nhạt nhòa trước mắt. Đặt tay lên vai tôi, cô ấy ân cần động viên – an ủi bằng những lời lẽ chứa chan sự thân tình. Rồi cô ấy khóc, ôm lấy tôi như một người bạn; một người chị em rất đỗi thân thiết với tôi đã lâu rồi vậy… Tôi khe khẽ run lên vô vọng theo mỗi lời cô ấy nói. Và rồi bất ngờ, cô ấy mạnh mẽ lên tiếng, giọng nói dứt khoát và mạch lạc giống như một mệnh lệnh nghiêm khắc nhất dội lên chút ý chí yếu ớt của tôi:
– Chị hãy dang tay ra! ôm lấy thầy đi nào… Thế… cứ từ từ thôi cũng được… Nào… một… hai… ba… Cố gắng lên! Phải ôm được thầy lấy một cái đấy nhé! Hãy thật là nghị lực bởi khó khăn thực ra là một sự lừa dối cảm giác mà thôi.
Lúc này, tôi bắt đầu cố vận động toàn bộ sức lực, chậm chạp và run rẩy nhấc hai cánh tay lên. Theo nhịp đếm từng giây, cuối cùng đôi tay bướng bỉnh của tôi cũng chịu chạm được đến làn áo xanh nhạt nhòa ấy. Vai tôi run run. Cô ấy cũng khóc. Rồi lại đặt tay vào vai tôi, cô ấy ân cần dặn dò:
– Hứa với thầy nhé! Nhất định là ra đó chỉ vài hôm thôi. Còn đâu thì phải về đây ăn Tết với thầy, rõ chưa?!
Tôi nghẹn ngào trong niềm cảm động vô bờ bến. Lắng nghe tâm hồn mình ào đến nguồn hạnh phúc bất tận qua tiếng sụt sịt khe khẽ của đám đông phạm nhân đang ở xung quanh. Nằm trên xe cấp cứu, đoạn đường từ trại ra đến bệnh viện, tôi vẫn giữ nguyên những hình ảnh đầy cảm động đó trong tâm thức mình qua dòng nước mắt ngân ngấn trên đôi mi khép hờ. Chợt tôi hiểu rằng, rồi đây, tôi sẽ không cô đơn trong cuộc chiến chống lại bệnh tật. Tôi sẽ sớm bình phục. Phải về ăn Tết với thầy và mọi người. Tôi không được phép buông xuôi khát vọng sống để trở lại làm một công dân bình dị như bao công dân lương thiện trong đời sống xã hội ngày mai”. Và Tết ấy, Mai đã trở về trại trong vòng tay nhân ái, bao dung của các cán bộ quản giáo, trong niềm vui chia sẻ của những phạm nhân cùng buồng giam.
– Em có nhớ người thầy ấy là ai không? – Tôi hỏi Mai.
Em không nhớ họ tên của thầy, chỉ biết thầy tên là Hương, còn rất trẻ. Những ngày em ốm, thầy thường xuyên hỏi thăm, động viên em. Có hôm thầy mang sữa vào cho em. Bây giờ thì thầy chuyển sang phân trại K1 rồi. Lâu không gặp lại thầy, nhưng thầy là động lực lớn lao giúp em mạnh mẽ, can đảm thêm mỗi khi em gặp phải sự khó khăn nào trong cuộc sống.
Và những người thầy – cán bộ quản giáo ấy không chỉ giúp Mai giành lại sự sống, mà quan trọng hơn đã cho cô hiểu giá trị cuộc sống, cho cô niềm tin vào tương lai. Khi viết tự truyện Bước về phía mặt trời, Mai không nghĩ tác phẩm của mình đoạt giải mà đơn giản, cô viết để giải tỏa nỗi lòng mình, viết như một cơ hội tìm lại sự lương thiện mà cô đã từng đánh mất, viết để tri ân những người đã giúp cô ngộ ra rằng mỗi ngày sống là một ngày có ý nghĩa.
Nguồn : Người Lao Động